THỨ BẨY, NGÀY 20 THÁNG 04 NĂM 2024 01:11

Lễ phát động Ngày vi chất dinh dưỡng 2019

29/05/2019 | 14:38

 

GS.TS Nguyễn Viết Tiến – Thứ trưởng thường trực Bộ Y tế phát biểu về tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ em Việt Nam và nhấn mạnh vai trò quan trọng của việc bổ sung các vi chất dinh dưỡng.

Trong những năm qua, Đảng, Chính phủ và Ngành Y tế luôn đặc biệt quan tâm đến công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân trong đó có công tác dinh dưỡng, phòng chống suy dinh dưỡng (SDD), phòng chống thiếu vi chất dinh dưỡng (VCDD) nâng cao tầm vóc và trí tuệ người Việt Nam, đảm bảo nguồn nhân lực chất lượng cao cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể về cải thiện tình trạng dinh dưỡng cho người dân như tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em đã giảm nhanh và bền vững (suy dinh dưỡng thể nhẹ cân giảm từ 30,1% năm 2000 xuống còn 14,1% năm 2015 và năm 2016 tỷ lệ SDD nhẹ cân ở trẻ dưới 5 tuổi là 13,8%); chúng ta đã thanh toán được tình trạng mù lòa do thiếu vitamin A; tình trạng thiếu vitamin A huyết thanh, thiếu máu do thiếu sắt và thiếu các VCDD khác ngày càng được cải thiện; kiến thức, thực hành dinh dưỡng đúng của người dân ngày càng được nâng cao….

Các em học sinh tại Thanh Hóa hào hứng tham gia chương trình văn nghệ chào mừng Lễ phát động Ngày vi chất dinh dưỡng năm 2019.
 

GS.TS Nguyễn Viết Tiến – Thứ trưởng thường trực Bộ Y tế cùng các đại biểu khách mời cho các em học sinh uống Vitamin A, một trong những vi chất dinh dưỡng quan trọng giúp tăng trưởng, nâng cao tầm vóc, sức khỏe, trí tuệ và chất lượng cuộc sống.
 
Tuy vậy, Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với những thách thức như: Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi (chiều cao theo tuổi) ở trẻ em dưới 5 tuổi mỗi năm giảm 1%, nhưng vẫn còn ở mức cao (24,3% năm 2016) và có sự chênh lệch giữa các vùng nhất là vùng núi, vùng khó khăn và nông thôn với thành phố, đồng bằng. Tỷ lệ này ở miền núi phía Bắc là 30,3% và Tây nguyên là 34,2%. Suy dinh dưỡng thấp còi và thiếu vi chất dinh dưỡng là những nguyên nhân chính dẫn tới chiều cao thấp ở thanh niên Việt Nam. Ngoài ra, thiếu VCDD còn ảnh hưởng xấu tới sức khỏe, tới sự phát triển thể lực, tầm vóc, trí tuệ, cản trở sự tăng trưởng và phát triển toàn diện của trẻ em và khả năng sinh sản cũng như năng suất lao động của người lớn. Trong khi đó việc thực hiện chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, chế độ dinh dưỡng học đường, dinh dưỡng cho người lao động mới chỉ đạt kết quả bước đầu. Do vậy cần nâng cao nhận thức về vai trò dinh dưỡng, dinh dưỡng hợp lý của các cấp ủy đảng, chính quyền và người dân, các bộ ngành, địa phương cần quan tâm đầu tư hơn nữa cho công tác dinh dưỡng.
 
Có mặt tại buổi lễ Gs. Ts. Nguyễn Viết Tiến, Thứ trưởng Bộ Y tế phát biểu “ngày vi chất dinh dưỡng là hoạt động được tổ chức thường niên nhằm vận động và đẩy mạnh công tác phòng chống thiếu Vi chất dinh dưỡng, phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ em và bà mẹ”. Ông bày tỏ mong muốn “các cấp ủy đảng, chính quyền của tỉnh Thanh Hóa nói riêng và trên toàn quốc nói chung cũng sẽ dành cho trẻ em những tình cảm tốt đẹp và sự quan tâm bằng việc tổ chức triển khai có hiệu quả công tác phòng chống suy dinh dưỡng, phòng chống thiếu dinh dưỡng tại địa phương mình”.
 
Gs. Ts. Lê Danh Tuyên, Viện trưởng Viện Dinh dưỡng cho rằng “Cải thiện chất lượng bữa ăn, bổ sung vi chất dinh dưỡng được Tổ chức Y tế Thế giới khẳng định là hết sức cần thiết ở tất cả các quốc gia, đặc biệt tại các nước đang phát triển. Bổ sung đa vi chất dinh dưỡng có hiệu quả tới tăng trưởng và phát triển trẻ em nhiều hơn bổ sung một vi chất đơn lẻ. Khuyến khích các doanh nghiệp tăng cường đa vi chất vào sản phẩm thực phẩm. Viện Dinh dưỡng khuyến nghị sử dụng đa dạng, phối hợp nhiều loại thực phẩm cho bữa ăn hàng ngày; khuyến khích lựa chọn và sử dụng thực phẩm có tăng cường vi chất dinh dưỡng. Người dân nên lưu ý lựa chọn các thực phẩm có tăng cường vi chất dinh dưỡng trong bữa ăn hàng ngày như muối tăng cường I ốt, bột mỳ tăng cường sắt kẽm hoặc các thực phẩm có thành phần nguyên liệu có tăng cường vi chất dinh dưỡng này, dầu ăn tăng cường vitamin A. Với các cháu được uống sữa theo chương trình sữa học đường, sử dụng sữa tăng cường đa vi chất sẽ có lợi hơn cho sự tăng trưởng và phát triển. Loại và hàm lượng các vi chất dinh dưỡng tăng cường vào sữa học đường theo hướng dẫn của Tổ chức Y tế thế giới và phù hợp với nhu cầu dinh dưỡng lứa tuổi trong bảng nhu cầu dinh dưỡng khuyến nghị cho người Việt Nam (2017). 
 
 
 Các đại biểu khách mời và các em học sinh chụp hình lưu niệm tại chương trình Lễ phát động Ngày vi chất dinh dưỡng năm 2019.
 
Năm 2019, Viện Dinh dưỡng cấp 14 triệu viên đa vi chất miễn phí cho phụ nữ mang thai để phòng thiếu vi chất cho bà mẹ và trẻ em được triển khai tại 85 huyện nghèo trong cả nước (Theo Quyết định số: 275/QĐ-TTg, ngày 07 tháng 03 năm 2018 của Thủ tướng Chính phủ). Viên đa vi chất có chứa 20 loại vi chất dinh dưỡng, các bà mẹ mang thai cần uống thường xuyên, đều đặn 1 viên/ngày. 
 
Hàng năm, có gần 1 triệu trẻ dưới 5 tuổi được cải thiện tình trạng thiếu vitamin A nhờ hoạt động uống bổ sung vitamin A cho trẻ từ 6 - 36 tháng tuổi ở 41 tỉnh thành, uống bổ sung vitamin A cho trẻ từ 6 - 60 tháng tuổi và tẩy giun cho trẻ từ 24 – 60 tháng tuổi tại 22 tỉnh khó khăn (nơi có tỷ lệ suy dinh dưỡng cao) mỗi năm 2 lần, bà mẹ sau sinh trong vòng 1 tháng uống 1 liều vitamin A, đồng thời việc bổ sung vitamin A cho trẻ em và bà mẹ sau sinh đã trở thành hoạt động thường niên của hơn 11.000 xã/phường trong toàn quốc. 
 
Trong Ngày Vi chất dinh dưỡng (1-2/6), các bà mẹ đưa trẻ trong độ tuổi đi uống vitamin A tại các điểm uống ở xã/phường, hoạt động đó thực sự có ý nghĩa như một ngày hội “Chăm sóc sức khỏe trẻ em”, là món quà nhân văn trong Ngày Quốc tế thiếu nhi 1/6. Theo kế hoạch, Ngày Vi chất dinh dưỡng năm nay sẽ có trên 6 triệu trẻ dưới 5 tuổi được uống vitamin A, hàng triệu trẻ từ 24-60 tháng tuổi tại 22 tỉnh khó khăn được tẩy giun. 
Thực trạng về thiếu vi chất dinh dưỡng ở Việt Nam:

1. Thiếu vitamin A: 
Năm 1995, Việt Nam đã được Tổ chức y tế thế giới (TCYTTG) công nhận là đã thanh toán thiếu vitamin A thể lâm sàng nhưng thiếu vitamin A tiền lâm sàng vẫn còn ở mức có YNSKCĐ. Kết quả Điều tra tình trạng thiếu một số vi chất dinh dưỡng ở phụ nữ và trẻ em (từ 6 – 59 tháng tuổi) tiến hành năm 2014 - 2015 cho thấy tỷ lệ thiếu vitamin A tiền lâm sàng ở trẻ em dưới 5 tuổi là 13,0%, có sự chênh lệch giữa các vùng; thậm chí một số địa phương miền núi, tỷ lệ này lên tới 16,1%, tỉ lệ vitamin A trong sữa mẹ thấp ở mức 34,8%.
 
2. Thiếu máu:
Theo kết quả điều tra trên cho thấy 32,8% phụ nữ có thai; 25,5% phụ nữ tuổi sinh đẻ; 27,8% trẻ em dưới 5 tuổi bị thiếu máu. Tỷ lệ thiếu máu cao nhất ở trẻ em 6 - 24 tháng tuổi (42,7% - 45%) và phụ nữ tuổi sinh đẻ khu vực miền núi (27,9%). Tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ lứa tuổi sinh đẻ thấp hơn ở khu vực nông thôn và thành phố với tỷ lệ tương ứng là 26,3% và 20,8%. Tỷ lệ thiếu máu có xu hướng giảm, nhưng giảm ở mức chậm và hiện vẫn ở mức trung bình về YNSKCĐ. Thiếu máu do thiếu sắt chiếm tỷ lệ 63,6 % (ở trẻ em < 5 tuổi); 54,3% (phụ nữ có thai) và 37,7% (phụ nữ tuổi sinh đẻ) trong các trường hợp thiếu máu.  
 
3. Thiếu kẽm
Cũng theo kết quả của cuộc điều tra vi chất năm 2014 - 2015 cho thấy có 80,3% phụ nữ có thai, 63,6% phụ nữ tuổi sinh đẻ và 69,4% trẻ em dưới 5 tuổi bị thiếu kẽm và được đánh giá là ở mức nặng về YNSKCĐ. Tỷ lệ thiếu kẽm cao ở trẻ em dưới 5 tuổi, đặc biệt ở miền núi (80,8%) và nông thôn (71,6%).
 
4. Thiếu vitamin D và can xi: 
Điều tra vi chất năm 2010 trên 19 tỉnh thành của Việt Nam cho thấy tình trạng thiếu vitamin D còn rất phổ biến, tỷ lệ thiếu vitamin D huyết thanh và tỷ lệ vitamin D thấp là 17% và 40% ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ và là 21% và 37% ở trẻ em. Nếu sử dụng ngưỡng là 75 nmol/L thì tỷ lệ thiếu vitamin D tương ứng là 90% ở cả phụ nữ và trẻ em. Bên cạnh đó mức tiêu thụ vitamin D và canxi của phụ nữ và trẻ em Việt Nam cũng mới chỉ đạt 1% và dưới 43% nhu cầu khuyến nghị.
 
5. Thiếu Iốt: 
Kết quả điều tra của Bệnh viện Nội tiết TW năm 2013 – 2014 cho thấy tỷ lệ bướu cổ trẻ em từ 8 -10 tuổi là 9,8%, tỉ lệ hộ gia đình sử dụng muối iốt đủ tiêu chuẩn phòng bệnh khoảng 60%, mức trung vị iốt niệu là 8,4 mcg/dl. Đây là mức thấp nhất trong 10 năm qua, trong khi đó theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới về thanh toán tình trạng thiếu iốt mà chúng ta đã đạt được năm 2005 thì tỷ lệ bướu cổ trẻ em 8 -10 tuổi <5% và mức trung vị iốt niệu ≥ 10 mcg/dl, tỷ lệ hộ gia đình sử dụng muối iốt đủ tiêu chuẩn phòng bệnh > 90%.
 

Yến Lê/GĐ&TE

“Sống trọn não bộ” - Trang sách của người từng trải qua đột quỵ nói về khoa học thần kinh não bộ

“Sống trọn não bộ” - Trang sách của người từng trải qua đột quỵ nói về khoa học thần kinh não bộ

5 tháng trước

“Nằm vo tròn như một thai nhi trong bụng mẹ, tôi cảm giác mình sắp chết, không còn chút hi vọng nào có thể sống sót để kể lại câu chuyện này cho bất kỳ ai”.